Lịch sử Việt Nam – Giaitrivanhoa.com https://giaitrivanhoa.com Khám phá thế giới giải trí và văn hóa đa dạng! Thu, 02 Oct 2025 10:39:44 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/giaitrivanhoa/2025/08/giaitrivanhoa.svg Lịch sử Việt Nam – Giaitrivanhoa.com https://giaitrivanhoa.com 32 32 Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội – Những quyết sách lịch sử https://giaitrivanhoa.com/dang-cong-san-viet-nam-qua-cac-ky-dai-hoi-nhung-quyet-sach-lich-su/ Thu, 02 Oct 2025 10:39:42 +0000 https://giaitrivanhoa.com/dang-cong-san-viet-nam-qua-cac-ky-dai-hoi-nhung-quyet-sach-lich-su/

Cuốn sách “Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội – Những quyết sách lịch sử” do Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành đã trở thành một tài liệu quý giá giúp người đọc nhìn lại chặng đường phát triển tư duy và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội. Với sự chủ biên của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Trọng Lâm, cuốn sách này được cấu trúc theo từng kỳ Đại hội, trình bày logic phát triển của Đảng trong hơn 80 năm qua, bắt đầu từ Đại hội lần thứ I năm 1930 đến Đại hội XIII năm 2021.

Cuốn sách không chỉ đơn thuần liệt kê các quyết sách tại các kỳ Đại hội theo dòng thời gian mà còn đặt chúng trong tương quan lịch sử, chính trị rộng lớn, gắn với các biến động trong nước và thế giới. Qua đó, người đọc có thể thấy được sự gắn kết giữa hoàn cảnh và hành động, làm nổi bật tinh thần chủ động, nhạy bén, sáng tạo của Đảng trong từng giai đoạn. Từ Đại hội lần thứ I năm 1935, khẳng định sự trưởng thành của Đảng sau những năm tháng hoạt động bí mật, đến Đại hội II năm 1951, Đảng công khai hoạt động với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam giữa chiến khu Việt Bắc, và đặc biệt là Đại hội III năm 1960, mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tất cả được trình bày cô đọng, sinh động, với nhiều thông tin quý.

Đại hội VI (1986) – Đại hội khởi xướng công cuộc Đổi mới, đã đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy cầm quyền của Đảng. Tiếp nối tinh thần đó, các Đại hội VII, VIII, IX, X đều đánh dấu quá trình vừa tiếp tục đổi mới, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi mở rộng hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư và phát triển giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ. Những thay đổi này không chỉ phản ánh nỗ lực của Đảng trong việc thích nghi với tình hình mới mà còn thể hiện quyết tâm không ngừng nghỉ trong việc xây dựng và phát triển đất nước.

Đặc biệt, tại Đại hội XIII (2021), cuốn sách không chỉ nêu bật thành tựu, mà còn phản ánh sự trưởng thành vượt bậc trong tư duy chiến lược của Đảng. Với khát vọng đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Đại hội đề ra nhiều định hướng đột phá, từ chuyển đổi số, đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững, đến xây dựng Nhà nước pháp quyền và hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực. Các nội dung này cho thấy Đảng không ngừng làm mới chính mình, vừa giữ vững bản chất cách mạng, vừa đổi mới phương thức lãnh đạo phù hợp với thực tiễn hiện đại.

Cuốn sách cũng nhấn mạnh vai trò của công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng như những nội dung xuyên suốt trong cải cách chính trị. Đây là những yếu tố then chốt giúp Đảng duy trì được sự trong sạch, vững mạnh và nâng cao hiệu quả lãnh đạo. Thông qua đó, người đọc có thể thấy được sự quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng một hệ thống chính trị liêm chính, hiệu quả, phục vụ cho sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

Cuốn sách “Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội – Những quyết sách lịch sử” không chỉ là tài liệu nghiên cứu quan trọng mà còn truyền cảm hứng về tinh thần đổi mới không ngừng nghỉ của Đảng. Người đọc không chỉ thấy được hành trình phát triển của đất nước, mà còn cảm nhận quá trình trưởng thành về tư duy, bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của một chính đảng cách mạng. Đây là một tác phẩm thực sự hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử, đường lối và quyết sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt hơn 80 năm qua.

]]>
Mưa Đỏ – Phim về 81 ngày đêm lửa cháy tại Thành cổ Quảng Trị https://giaitrivanhoa.com/mua-do-phim-ve-81-ngay-dem-lua-chay-tai-thanh-co-quang-tri/ Wed, 20 Aug 2025 21:54:18 +0000 https://giaitrivanhoa.com/mua-do-phim-ve-81-ngay-dem-lua-chay-tai-thanh-co-quang-tri/

Phim điện ảnh ‘Mưa đỏ’ mới đây đã tiết lộ loạt poster chính thức của các nhân vật, bao gồm 7 thành viên của Tiểu đội 1 thuộc lực lượng Quân Giải phóng và 3 đại diện của lính ngụy Sài Gòn. Loạt poster này không chỉ hé lộ về hình ảnh mạnh mẽ mà còn khắc họa rõ nét không khí căng thẳng, đầy biến động của chiến trường Thành cổ Quảng Trị trong mùa hè năm 1972.

Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim 'Mưa đỏ'- Ảnh 4.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim ‘Mưa đỏ’- Ảnh 4.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim 'Mưa đỏ'- Ảnh 5.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim ‘Mưa đỏ’- Ảnh 5.

Qua các poster được công bố, người xem có thể cảm nhận được sự quyết liệt và chiều sâu cảm xúc của các nhân vật trong phim. Tiểu đội 1, với 7 thành viên trẻ trung và đầy lý tưởng, được thể hiện với nhiều cá tính và biểu cảm khác nhau. Cường, gương mặt đại diện cho lớp thanh niên trẻ yêu nước với tinh thần căm thù giặc sâu sắc. Người đội trưởng Tạ, với sự lãnh đạo và ý chí kiên cường, đã trở thành điểm tựa tinh thần cho đồng đội. Bên cạnh đó, những chiến sĩ như Bình, Tú, Sen, Hải, Tấn, mỗi người đều mang trên mình một câu chuyện và lý tưởng riêng, tạo nên một bức tranh đa sắc về tuổi trẻ thời chiến tranh.

Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim 'Mưa đỏ'- Ảnh 3.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim ‘Mưa đỏ’- Ảnh 3.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim 'Mưa đỏ'- Ảnh 6.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim ‘Mưa đỏ’- Ảnh 6.

Về phía lính ngụy Sài Gòn, các nhân vật như Quang, Thái, và Hoàng cũng được thể hiện với nhiều màu sắc và nội tâm phức tạp. Qua cách khắc họa này, phim không chỉ đơn thuần là một tác phẩm về chiến tranh mà còn góp phần tạo nên một bức tranh đa chiều về chiến trường, về những con người với nhiều góc nhìn và vận mệnh khác nhau. Sự kết hợp giữa các tuyến nhân vật này dự kiến sẽ mang lại cho ‘Mưa đỏ’ một chiều sâu cảm xúc và khắc họa rõ nét hơn thực tế cuộc chiến tranh, giúp khán giả có cái nhìn đa diện và cảm thông hơn về các nhân vật.

Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim 'Mưa đỏ'- Ảnh 2.
Chân dung 7 nam diễn viên đóng vai chiến sĩ của Tiểu đội 1 trong phim ‘Mưa đỏ’- Ảnh 2.

Với loạt poster chính thức này, ‘Mưa đỏ’ đang tạo được sự chú ý lớn từ công chúng và hứa hẹn sẽ là một trong những tác phẩm điện ảnh nổi bật, đánh dấu trong lịch sử điện ảnh Việt Nam. Thông tin chi tiết về lịch chiếu và các kênh phát hành sẽ được thông báo trong thời gian tới.

Hình ảnh các chiến sĩ trong Tiểu đội 1 của phim "Mưa đỏ".
Hình ảnh các chiến sĩ trong Tiểu đội 1 của phim “Mưa đỏ”.
]]>
‘Sao Đầu Mũ’ – Kết nối sinh viên với lịch sử Việt Nam bằng công nghệ AI https://giaitrivanhoa.com/sao-dau-mu-ket-noi-sinh-vien-voi-lich-su-viet-nam-bang-cong-nghe-ai/ Sat, 16 Aug 2025 14:08:31 +0000 https://giaitrivanhoa.com/sao-dau-mu-ket-noi-sinh-vien-voi-lich-su-viet-nam-bang-cong-nghe-ai/

Nhóm dự án Người Việt Nam đã phát động chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’, một hành trình kéo dài từ ngày nay đến ngày 17 tháng 9, với mục tiêu kết nối thế hệ trẻ với lịch sử Việt Nam. Chiến dịch này tập trung vào việc giúp giới trẻ khám phá và hiểu biết về lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay thông qua các hoạt động sáng tạo và công nghệ hiện đại.

Sinh viên truyền thông mang ứng dụng công nghệ phục dựng vào lịch sử - ảnh 2
Sinh viên truyền thông mang ứng dụng công nghệ phục dựng vào lịch sử – ảnh 2

Điểm nổi bật của chiến dịch là Video Series ‘Sao trên chiến trận’, một chuỗi 4 tập phim tài liệu ngắn sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để phục dựng tư liệu lịch sử. Những hình ảnh đen trắng cũ kỹ của thời kỳ chiến tranh đã được làm sống động trở lại thông qua công nghệ AI. Các video không chỉ dừng lại ở việc kể lại chuyện xưa mà còn giúp người trẻ thấy gần gũi và kết nối với quá khứ thông qua công nghệ hiện đại.

Sinh viên truyền thông mang ứng dụng công nghệ phục dựng vào lịch sử - ảnh 3
Sinh viên truyền thông mang ứng dụng công nghệ phục dựng vào lịch sử – ảnh 3

Chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’ không chỉ giới hạn ở video mà còn tiếp nối với triển lãm tương tác tại Bảo tàng Biệt động Sài Gòn – Gia Định vào ngày 27-28 tháng 7 tới đây, nhân dịp 78 năm Ngày thương binh, liệt sĩ. Tại đây, các bạn trẻ sẽ có cơ hội trải nghiệm thực tế qua tư liệu, nghe những lời kể từ nhân chứng sống và tham gia vào các hoạt động kết nối xuyên thế hệ.

Chiến dịch quy tụ nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu như Bà Vũ Thị Minh Nghĩa, ông Phan Văn Hôn (Bảy Hôn), ông Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), bà Nguyễn Thị Bích Nga và nhiều cựu chiến binh, giao liên, nhân trong lịch sử khác. Đại diện nhóm cho biết: ‘Người lính năm xưa giản dị và bình tâm sống, không đòi vinh danh. Nhưng chính họ đã làm nên đất nước. Dự án này là lời tri ân và cũng là một cách để thế hệ trẻ biết ơn và ghi nhớ’.

Với việc sử dụng công nghệ phục dựng ảnh, trí tuệ nhân tạo, cùng với thông điệp giàu cảm xúc, ‘Sao Đầu Mũ’ không chỉ là một chiến dịch truyền thông, mà còn là một nỗ lực kiến tạo ký ức tập thể bằng ngôn ngữ của thế hệ mới.

Ngoài ra, chiến dịch còn bao gồm đêm nghệ thuật ‘Vườn âm nhạc’ tại Nhà hát HTV, dự kiến tổ chức vào ngày 10 tháng 8 tới đây. Hoạt động nghệ thuật này sẽ là màn trình diễn lịch sử bằng âm nhạc và sân khấu hóa, nơi những ký ức trở thành chất liệu sáng tạo.

Thông tin thêm về chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’ và các hoạt động liên quan có thể được tìm thấy trên các kênh truyền thông xã hội và trang web chính thức của nhóm dự án Người Việt Nam.

]]>
Phim tài liệu về cuộc kháng chiến toàn quốc của Việt Nam https://giaitrivanhoa.com/phim-tai-lieu-ve-cuoc-khang-chien-toan-quoc-cua-viet-nam/ Sat, 09 Aug 2025 11:28:45 +0000 https://giaitrivanhoa.com/phim-tai-lieu-ve-cuoc-khang-chien-toan-quoc-cua-viet-nam/

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày bùng phát cuộc kháng chiến toàn quốc, Kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV) đã giới thiệu một bộ phim tài liệu đặc biệt, tái hiện những sự kiện lịch sử quan trọng trong giai đoạn kháng chiến kiến quốc của Việt Nam. Bộ phim là một phần trong loạt phim được sản xuất bởi ANTV, nhằm mục đích tuyên truyền về những giá trị lịch sử và ý chí cách mạng của người Công an Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến toàn quốc của Việt Nam bắt đầu vào lúc 20h ngày 19/12/1946, khi quân và dân Thủ đô Hà Nội đã nổ súng, đánh响 tín hiệu bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại sự chiếm đóng của quân đội Pháp. Sáng hôm sau, ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi khắp cả nước. Lời kêu gọi này như một tiếng kèn xung trận vang dội, thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do.

Bộ phim tài liệu này là một nỗ lực của ANTV trong việc tái hiện và tuyên truyền về những sự kiện lịch sử quan trọng của Việt Nam. Thông qua bộ phim, người xem có thể hiểu rõ hơn về ý chí và tinh thần quyết tâm của người Công an Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, bộ phim cũng là một cách để tri ân và ghi nhớ những hy sinh và đóng góp của các thế hệ công an nhân dân trong lịch sử Việt Nam.

Người dân có thể tìm hiểu thêm về bộ phim tài liệu này và các hoạt động khác của ANTV thông qua trang web chính thức của kênh truyền hình này: https://www.antv.gov.vn/. Tại đây, người xem có thể tìm thấy thông tin về các chương trình truyền hình, phim tài liệu và các hoạt động khác của ANTV.

]]>
Sao Đầu Mũ: Kết nối ký ức dân tộc bằng công nghệ AI https://giaitrivanhoa.com/sao-dau-mu-ket-noi-ky-uc-dan-toc-bang-cong-nghe-ai/ Mon, 04 Aug 2025 16:28:02 +0000 https://giaitrivanhoa.com/sao-dau-mu-ket-noi-ky-uc-dan-toc-bang-cong-nghe-ai/

Chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’ – một dự án đặc biệt nhằm tri ân và ghi nhớ công lao của các cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc – đã được khởi động vào giữa tháng 6 và sẽ kéo dài đến ngày 17/9/2025. Dự án này là một phần của đồ án tốt nghiệp của nhóm sinh viên trường Đại học FPT TP.HCM.

Mới đây, chiến dịch đã thu hút sự chú ý của công chúng với chuỗi video ‘Video Series Sao trên chiến trận’, bao gồm 4 phim tài liệu ngắn ghi lại lời kể của các cựu chiến binh. Điểm nổi bật của chuỗi video này là việc sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để phục dựng hình ảnh đen trắng của quá khứ, biến chúng thành những khung hình sống động và đầy cảm xúc.

Được biết, dự án này không chỉ muốn kể lại chuyện xưa mà còn muốn làm sống dậy quá khứ bằng cách sử dụng công nghệ để giúp người trẻ cảm nhận gần gũi nhất. Anh Nguyễn Hữu Trường, thành viên Ban tổ chức dự án, cho biết: ‘Người lính năm xưa giản dị và bình tâm sống, không đòi vinh danh. Nhưng chính họ đã làm nên đất nước. Dự án này là lời tri ân và cũng là một cách để thế hệ trẻ biết ơn và ghi nhớ’.

Chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’ sẽ tiếp nối với hoạt động triển lãm tương tác và trải nghiệm lịch sử tại Bảo tàng Biệt động Sài Gòn – Gia Định vào ngày 27/7/2025, nhân kỷ niệm 78 năm ngày Thương binh Liệt sĩ. Triển lãm quy tụ nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu như bà Vũ Thị Minh Nghĩa, ông Phan Văn Hôn, ông Nguyễn Văn Tàu và nhiều cựu chiến binh, giao liên, nhân chứng lịch sử khác.

Hoạt động thứ hai nằm trong chiến dịch là đêm nghệ thuật ‘Vườn âm nhạc’ tại Nhà hát HTV, dự kiến diễn ra vào ngày 10/8/2025. Hoạt động nghệ thuật này sẽ là màn trình diễn lịch sử bằng âm nhạc và sân khấu hóa, nơi những ký ức trở thành chất liệu sáng tạo.

Ngoài ra, hoạt động thăm hỏi người có công với cách mạng sẽ được tổ chức vào ngày 19/8/2025, như một phần thiết thực thể hiện lòng biết ơn của người trẻ hôm nay với thế hệ cha anh đi trước.

Thông qua chiến dịch ‘Sao Đầu Mũ’, nhóm thực hiện hy vọng mang tới thông điệp về lịch sử Việt Nam được tái hiện một cách sáng tạo thông qua trải nghiệm thực tế, công nghệ truyền thông hiện đại và góc nhìn của người trẻ, từ đó khơi dậy lòng biết ơn, niềm tự hào và khát vọng cống hiến.

]]>
Sông Đà – Lịch sử một vùng biên cảnh Việt Nam: Một góc nhìn mới về vai trò và bản sắc khu vực https://giaitrivanhoa.com/song-da-lich-su-mot-vung-bien-canh-viet-nam-mot-goc-nhin-moi-ve-vai-tro-va-ban-sac-khu-vuc/ Mon, 04 Aug 2025 05:27:00 +0000 https://giaitrivanhoa.com/song-da-lich-su-mot-vung-bien-canh-viet-nam-mot-goc-nhin-moi-ve-vai-tro-va-ban-sac-khu-vuc/

Nhà sử học người Pháp Philippe Le Failler đã đưa ra một cái nhìn mới mẻ về vùng đất mà sông Đà chảy qua trong tác phẩm ‘Sông Đà: Lịch sử một vùng biên cảnh Việt Nam’. Ông trình bày chi tiết và phức tạp về lịch sử của khu vực này trong hơn hai thế kỷ qua, thách thức quan điểm cho rằng vùng Tây Bắc xa xôi chỉ tiếp nhận lịch sử một cách bị động do vị trí địa lý cách xa trung tâm quyền lực.

Thay vào đó, ông khẳng định vai trò đặc biệt của khu vực có sông Đà chảy qua như một không gian đa dạng, chứa đựng nhiều lãnh địa khác nhau. Khu vực này đóng vai trò là vùng đệm giữa các đế chế và vương quốc, và tích cực tham gia vào việc định hình không gian quyền lực và bản sắc của khu vực. Vì vậy, tác phẩm này là một câu chuyện rất đáng để kể, khám phá vai trò quan trọng của khu vực sông Đà trong lịch sử Việt Nam.

Tác phẩm không chỉ đơn thuần là một chuyên khảo lịch sử địa phương mà còn là một tác phẩm tổng hợp, trình bày một bức tranh toàn diện về khu vực này. Nơi đây là tụ hội của lịch sử, các dòng chảy văn hóa và số phận con người. Sông Đà, dưới nhãn quan của tác giả, không chỉ là một yếu tố địa lý mà còn là nơi chứa đựng những giao thoa thú vị giữa quyền lực, văn hóa và các cộng đồng đa sắc tộc.

Trong từng chương sách, Philippe Le Failler đã trình bày lịch sử biến động của khu vực sông Đà theo chiều thời gian. Ông đề cập đến ảnh hưởng của Trung Quốc ở phía Bắc, người Lào ở phía Tây đến các tộc trưởng người Thượng và thực dân Pháp. Ông không chỉ dừng lại ở đó mà còn nghiên cứu lịch sử dòng tộc, gia đình, như trường hợp của tộc trưởng Đèo Văn Trì, để làm rõ những biến động này.

Cuốn sách dựa vào những tư liệu mà các chính quyền trước đã để lại, từ đó phác thảo nên bức tranh toàn cảnh của khu vực sông Đà trong lịch sử. Qua đó, độc giả có thể hiểu rõ hơn về sự phức tạp và đa dạng của khu vực này, cũng như vai trò quan trọng của nó trong lịch sử Việt Nam.

Cuốn sách ‘Sông Đà: Lịch sử một vùng biên cảnh Việt Nam’ của Philippe Le Failler không chỉ là một tác phẩm lịch sử đơn thuần mà còn là một công trình nghiên cứu sâu sắc về văn hóa, quyền lực và cộng đồng trong khu vực sông Đà. Tác giả đã trình bày một cách rõ ràng và hấp dẫn về vai trò quan trọng của khu vực này trong lịch sử Việt Nam và giao thoa văn hóa giữa các dân tộc.

Thông qua tác phẩm này, độc giả có thể có một cái nhìn tổng quan và sâu sắc về khu vực sông Đà, cũng như hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa của một vùng đất. Cuốn sách cũng thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao đối với các nguồn tư liệu lịch sử, cũng như sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.

Với những đóng góp của mình, cuốn sách ‘Sông Đà: Lịch sử một vùng biên cảnh Việt Nam’ là một tài liệu quý giá cho những ai quan tâm đến lịch sử, văn hóa và quyền lực trong khu vực sông Đà. Tác phẩm này cũng là một ví dụ điển hình về việc nghiên cứu và trình bày lịch sử một cách sâu sắc và hấp dẫn.

]]>
Tuyên ngôn Độc lập – Lời khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam https://giaitrivanhoa.com/tuyen-ngon-doc-lap-loi-khang-dinh-chu-quyen-cua-dan-toc-viet-nam/ Tue, 29 Jul 2025 14:46:09 +0000 https://giaitrivanhoa.com/tuyen-ngon-doc-lap-loi-khang-dinh-chu-quyen-cua-dan-toc-viet-nam/

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Khoảnh khắc ấy không chỉ đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến – thực dân trên đất nước ta, mà còn mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân làm chủ và đất nước bước vào thời đại cách mạng hiện đại hóa.

Bài 1: Cách mạng trưởng thành từ trong gian khó
Bài 1: Cách mạng trưởng thành từ trong gian khó

Từ một đất nước chịu thân phận nô lệ của chủ nghĩa thực dân ròng rã 80 năm, chỉ sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám không lâu, Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” bằng bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9 với tuyên bố đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) sẽ thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thanh tra Chính phủ về thanh tra chuyên đề công trình, dự án có khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ, tồn đọng kéo dài, hiệu quả thấp, nguy cơ gây thất thoát, lãng phí trên địa bàn Thành phố.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) sẽ thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Thanh tra Chính phủ về thanh tra chuyên đề công trình, dự án có khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ, tồn đọng kéo dài, hiệu quả thấp, nguy cơ gây thất thoát, lãng phí trên địa bàn Thành phố.

Ngay trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những tinh thần cốt lõi của hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới: Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Đây không chỉ là một lựa chọn mang tính đối ngoại khéo léo, mà còn là khẳng định Việt Nam đang thực thi một quyền cơ bản – quyền thiêng liêng của con người, quyền không thể chối cãi của mọi dân tộc: Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Từ mùa thu độc lập đến mùa thu đổi mới
Từ mùa thu độc lập đến mùa thu đổi mới

Không chỉ khẳng định lẽ phải của dân tộc mình, Tuyên ngôn còn là lời buộc tội hùng hồn đối với chế độ thực dân Pháp đã gây bao đau thương, tàn phá, bóc lột ở Việt Nam hơn 80 năm qua. Từng dòng trong bản tuyên ngôn như những nhát cuốc dứt khoát vạch lên mặt đất đã từng bị giày xéo, tuyên bố trước nhân loại rằng: Chúng tôi thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Xây dựng Thủ đô đẹp giàu
Xây dựng Thủ đô đẹp giàu

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử – nó là một bản cáo trạng đanh thép, một lời tuyên thệ trước nhân dân và thế giới, một tuyên bố mở ra thời đại mới cho dân tộc Việt Nam.

Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không đơn thuần là một nghi thức chính trị. Đó là lời tuyên bố chủ quyền giữa bối cảnh đầy biến động khi các thế lực quốc tế đang nhăm nhe “chia phần” bán đảo Đông Dương. Việt Nam cần một danh tính rõ ràng, một tiếng nói chính thức để bước vào vũ đài quốc tế với tư cách một quốc gia độc lập.

Từ thời khởi nghĩa Lam Sơn đến phong trào Cần Vương, từ Trần Hưng Đạo đến Nguyễn Trãi, từ Nguyễn Huệ đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh – tinh thần yêu nước của Việt Nam luôn bền bỉ chảy suốt chiều dài lịch sử. Nhưng chỉ đến ngày 2/9/1945, tinh thần đó mới được “quy tụ” thành một lời khẳng định chính danh: Việt Nam là một nước độc lập. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tự do.

Trong bối cảnh thế giới có những chuyển biến khó lường, sự tính toán địa chính trị của các nước lớn, hành vi bá quyền, xâm chiếm lãnh thổ; chiến tranh thương mại; chiến tranh thông tin, an ninh mạng làm cho cấu trúc an ninh của mỗi quốc gia bước sang một giai đoạn khác. Song bất luận hoàn cảnh nào thì tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn là ngọn cờ dẫn đường.

Không chỉ trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, tinh thần Tuyên ngôn còn được kế thừa và lan tỏa trong cả phát triển kinh tế – xã hội. Một đất nước độc lập không thể chỉ dừng lại ở chủ quyền lãnh thổ, mà còn là chủ quyền số, chủ quyền dữ liệu, chủ quyền văn hóa và trí tuệ. Khát vọng hùng cường ngày nay chính là sự tiếp nối tự nhiên của kỷ nguyên mà Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là ký ức lịch sử mà là nguồn sức mạnh tinh thần, là lời cam kết thiêng liêng của cả dân tộc, là kim chỉ nam để đất nước tiếp tục vươn mình đi lên trong thế giới biến động hôm nay.

Ngày nay, trong hành trình dựng xây đất nước hiện đại, hội nhập sâu rộng với thế giới, lời thề độc lập ấy vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta không chỉ giữ gìn độc lập bằng súng đạn, mà còn bằng khoa học, giáo dục, sáng tạo và tinh thần đổi mới. Mỗi công dân đều đang là người kế tục di sản vĩ đại tinh thần cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2/9 bằng hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày, bằng việc làm tử tế, bằng nỗ lực không ngừng để làm rạng danh Tổ quốc.

]]>
Tấm gương sáng của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh với phong trào công nhân và báo chí cách mạng Việt Nam https://giaitrivanhoa.com/tam-guong-sang-cua-dong-chi-nguyen-duc-canh-voi-phong-trao-cong-nhan-va-bao-chi-cach-mang-viet-nam/ Tue, 29 Jul 2025 02:10:47 +0000 https://giaitrivanhoa.com/tam-guong-sang-cua-dong-chi-nguyen-duc-canh-voi-phong-trao-cong-nhan-va-bao-chi-cach-mang-viet-nam/

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân và báo chí cách mạng luôn đóng vai trò then chốt, góp phần tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong xã hội, đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và giành độc lập dân tộc. Một trong những nhân vật tiêu biểu gắn bó với phong trào công nhân và báo chí cách mạng là đồng chí Nguyễn Đức Cảnh – người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công đoàn Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932) là một trong những nhân vật quan trọng của phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong thời điểm đó, sự gia tăng về số lượng và chất lượng của công nhân trong các nhà máy, hầm mỏ, đặc biệt là ở khu vực Bắc Kỳ, đã tạo ra một lực lượng lao động tiềm tàng, sẵn sàng tham gia vào cuộc đấu tranh chống ách thống trị của thực dân và đế quốc.

Cảng Hải Phòng - nơi đồng chí Nguyễn Đức Cảnh hoạt động và lãnh đạo phong trào công nhân trong thời gian 1929-1930. Ảnh: Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh
Cảng Hải Phòng – nơi đồng chí Nguyễn Đức Cảnh hoạt động và lãnh đạo phong trào công nhân trong thời gian 1929-1930. Ảnh: Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Với tinh thần cách mạng sôi nổi, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã gia nhập các tổ chức cách mạng từ rất sớm. Sau khi được học tập ‘Đường kách mệnh’ của Nguyễn Ái Quốc, đồng chí thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và hiểu rõ vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Tuyên cáo đăng trên số đầu tiên - "số đặc biệt" Tạp chí Công hội Đỏ ngày 1/10/1929 - Ảnh: Tư liệu
Tuyên cáo đăng trên số đầu tiên – “số đặc biệt” Tạp chí Công hội Đỏ ngày 1/10/1929 – Ảnh: Tư liệu

Đồng chí đã trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân và hoạt động cách mạng ở các cơ sở tại Bắc Kỳ. Những trải nghiệm thực tế trong công việc tại các nhà máy, xưởng cơ khí đã giúp Nguyễn Đức Cảnh ‘vô sản hóa’ và nắm vững vấn đề của công nhân trong phong trào đấu tranh.

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Tháng 9/1927, hai đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và Lý Hồng Nhật đã tham gia lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc), nơi các đồng chí Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đã giảng dạy những bài học cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua những buổi học này, Nguyễn Đức Cảnh không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn tiếp thu được các phương pháp vận động công nhân, tư tưởng cách mạng của Quốc tế Cộng sản, cũng như chiến lược đấu tranh để giải phóng giai cấp vô sản khỏi sự áp bức của các thế lực đế quốc và phong kiến.

Địa điểm mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh năm 1928. Ảnh: Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh
Địa điểm mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh năm 1928. Ảnh: Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Cuối năm 1927, phong trào công nhân Bắc Kỳ phát triển mạnh mẽ. Nguyễn Đức Cảnh, trong vai trò lãnh đạo phong trào công nhân, đã tổ chức Đại hội đại biểu công nhân các tỉnh Bắc Kỳ vào ngày 28/7/1929, quyết định thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ. Đây là bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của Nguyễn Đức Cảnh, khi cùng các đồng chí sáng lập ra tổ chức Công đoàn Việt Nam đầu tiên, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Ngôi nhà số 15 Hàng Nón, Hà Nội, nơi thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) - Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam
Ngôi nhà số 15 Hàng Nón, Hà Nội, nơi thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) – Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ không chỉ là tổ chức Công đoàn đầu tiên tại Việt Nam mà còn là tổ chức Công đoàn có tính chất cách mạng rõ rệt, sau đó đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản. Tổ chức Công hội Đỏ vừa đấu tranh cho quyền lợi kinh tế của công nhân, đồng thời kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh giai cấp, đẩy mạnh phong trào cách mạng trong giai cấp công nhân. Trong khuôn khổ tổ chức Công đoàn, công nhân chính là những chiến sĩ cách mạng, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp.

Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh
Vẹn nguyên tinh thần của lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh

Ngoài vai trò là người sáng lập và lãnh đạo tổ chức Công hội Đỏ Bắc kỳ, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh còn là nhà lý luận, nhà báo cách mạng xuất sắc. Những tác phẩm của đồng chí, từ các tài liệu lý luận như ‘Công nhân vận động’ đến các bài viết trên các tờ báo cách mạng như ‘Đồng lòng tranh đấu’, ‘Cờ đỏ’, ‘Tin tức’, ‘Lao khổ’… đã góp phần to lớn trong việc hình thành nền báo chí cách mạng Việt Nam. Những tác phẩm này không chỉ cung cấp lý thuyết mà còn hướng dẫn các phương pháp đấu tranh cho công nhân, đặc biệt là công tác tổ chức và vận động công nhân tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng.

‘Công nhân vận động’ là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Đức Cảnh, viết trong thời gian đồng chí bị giam cầm trong nhà tù thực dân trước khi bị xử án chém. Trong tác phẩm này, Nguyễn Đức Cảnh đã đúc kết những kinh nghiệm trong việc tổ chức, vận động công nhân và đấu tranh cho quyền lợi của họ, đồng thời nêu ra các phương pháp vận động công nhân theo đúng đường lối của Đảng Cộng sản. Đây là tài liệu quý giá cho các thế hệ sau trong công tác xây dựng tổ chức Công đoàn và lý luận công nhân.

Bên cạnh việc tổ chức, vận động công nhân, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh còn đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền, vận động quần chúng thông qua báo chí. Ngày 1/10/1929, Tạp chí Công hội Đỏ (nay là Tạp chí Lao động và Công đoàn) ra đời, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Đây là tờ tạp chí đầu tiên trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam mang tính nghiên cứu lý luận sâu sắc, phục vụ cho công tác huấn luyện và tuyên truyền trong giai cấp công nhân.

Tạp chí Công hội Đỏ ra đời trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, khi chính quyền thực dân Pháp đang gia tăng các biện pháp đàn áp phong trào cách mạng. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo tài tình của Nguyễn Đức Cảnh, tạp chí đã vượt qua khó khăn, thành công trong việc phát hành các ấn phẩm đầu tiên. Tạp chí không chỉ đăng các bài viết về lý luận cách mạng mà còn thông tin về các phong trào đấu tranh của công nhân, những chiến công của giai cấp vô sản trên khắp đất nước.

Bài viết đầu tiên của Tạp chí đã nêu rõ mục đích và tôn chỉ: ‘Vô sản giai cấp phải có báo chí của vô sản giai cấp’, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một nền báo chí cách mạng phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân. Tạp chí là công cụ tuyên truyền và là một phương tiện quan trọng giúp công nhân Việt Nam hiểu được lý thuyết Mác – Lênin, vai trò của giai cấp vô sản trong cách mạng, cũng như lý thuyết đấu tranh giai cấp và quyền lực của nhân dân.

Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, với vai trò thủ lĩnh tiên phong của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, không chỉ ghi dấu ấn trong lịch sử phong trào công nhân mà còn mở ra những dự báo quan trọng đối với quá trình cách mạng và phát triển xã hội Việt Nam.

Khi Nguyễn Đức Cảnh trở thành người lãnh đạo đầu tiên của tổ chức Công hội Đỏ, đồng chí là người dự báo sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh chuyển mình của xã hội. Đồng thời, đồng chí cũng đã nhìn nhận được vai trò quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, dù vào thời điểm đó, Đảng còn trong giai đoạn hình thành và thử thách. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã nhìn thấy con đường mà giai cấp công nhân phải đi, gắn liền với sự phát triển của cách mạng và chủ nghĩa xã hội.

Đặc biệt, trong sự nghiệp báo chí của mình, Nguyễn Đức Cảnh đã có những đóng góp đáng chú ý khi tham gia sáng lập và phát triển tờ Công hội Đỏ – tờ tạp chí có tính chất lý luận đầu tiên của giai cấp công nhân và báo chí cách mạng Việt Nam. Mặc dù trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chưa chắc Nguyễn Đức Cảnh đã tiếp cận trực tiếp với những thành tựu hoặc kinh nghiệm hoạt động cách mạng của các bậc tiền bối như Lênin hay Nguyễn Ái Quốc, nhưng đồng chí đã linh cảm được những nguyên lý và phương thức cách mạng mà họ đề xuất. Điều này cho thấy một dự báo chính xác về sự phát triển của báo chí cách mạng, khi tờ Công hội Đỏ không chỉ đóng vai trò là phương tiện tuyên truyền lý luận, mà còn là một chiếc cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn cách mạng, báo hiệu một bước ngoặt trong sự nghiệp báo chí của Việt Nam.

Cảm nhận của Nguyễn Đức Cảnh về con đường cách mạng, qua những bài viết trong Công hội Đỏ, dường như đã chỉ ra rằng sự nghiệp báo chí cách mạng không chỉ đạt được những thành tựu quan trọng ngay trong thời kỳ của ông, mà còn là nền tảng cho những thành công vững bền trong tương lai. Những tư tưởng và chiến lược mà Nguyễn Đức Cảnh đề xuất hoàn toàn là dự báo đúng đắn cho nền báo chí cách mạng trong suốt nhiều thập kỷ sau này, với tầm ảnh hưởng kéo dài đến tận ngày nay.

Cuối cùng, một trong những dự báo quan trọng mà Nguyễn Đức Cảnh để lại chính là sự hình dung về tương lai của đất nước sau khi cuộc cách mạng vô sản hoàn toàn giành được thắng lợi. Dù vào thời điểm của ông, những khái niệm về chủ nghĩa xã hội còn mới mẻ và chưa được nhiều người, kể cả những người cách mạng, nhìn nhận một cách rõ ràng, niềm tin của ông vào chiến thắng của chủ nghĩa xã hội vẫn là khát vọng sâu sắc và bền bỉ. Mặc dù thực tế lịch sử đã chứng kiến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, nhưng niềm tin của Nguyễn Đức Cảnh vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam vẫn là dự báo có giá trị mãi mãi – bởi ngày nay đất nước chúng ta đã bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình đầy mạnh mẽ và triển vọng.

]]>
Hiệp định Genève – Bước ngoặt lịch sử trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc https://giaitrivanhoa.com/hiep-dinh-geneve-buoc-ngoat-lich-su-trong-cuoc-dau-tranh-giai-phong-dan-toc/ Sun, 27 Jul 2025 10:21:05 +0000 https://giaitrivanhoa.com/hiep-dinh-geneve-buoc-ngoat-lich-su-trong-cuoc-dau-tranh-giai-phong-dan-toc/

Hiệp định Genève – Dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam

Tin về Chiến thắng Điện Biên Phủ của QĐND Việt Nam chiều 7/5/1954 được truyền đến Genève và ngay sáng sớm 8/5/1954 (giờ Genève), vấn đề Đông Dương chính thức được đưa lên bàn nghị sự. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Tin về Chiến thắng Điện Biên Phủ của QĐND Việt Nam chiều 7/5/1954 được truyền đến Genève và ngay sáng sớm 8/5/1954 (giờ Genève), vấn đề Đông Dương chính thức được đưa lên bàn nghị sự. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Ngày 21/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đánh dấu chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Đây là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp định Genève là dấu mốc quan trọng trong tiến trình cách mạng của nhân dân ta, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục cuộc đấu tranh đi tới thống nhất đất nước.

Sự kiện này bắt nguồn từ tháng 1/1954, khi Ngoại trưởng 4 nước: Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp họp tại Berlin (Đức) và quyết định triệu tập Hội nghị quốc tế ở Genève để giải quyết vấn đề chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 26/4/1954, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam kết thúc đợt 2 ở Điện Biên Phủ, Hội nghị Genève bắt đầu được khai mạc.

Tham dự hội nghị có đại diện của các bên gồm Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, chính quyền Bảo Đại, Campuchia và Lào. Ban đầu, hội nghị bàn về vấn đề chiến tranh Triều Tiên chứ không bàn ngay về vấn đề Đông Dương. 17 giờ 30 phút, ngày 7/5/1954, tin thất bại của thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ gửi về hội nghị từ Đông Dương. Do đó, sáng ngày 8/5/1954, vấn đề Đông Dương được đưa lên bàn nghị sự.

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Genève. Hiệp định Genève cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa quân sự với ngoại giao, giữa thắng lợi quân sự trên chiến trường trong Chiến cục Đông – Xuân 1953 – 1954 với đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán.

Hiệp định Genève trở thành một văn bản mang tính quốc tế cho một giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam trên các mặt quân sự, chính trị, xã hội và pháp lý. Việc ký kết Hiệp định Genève đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc, mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam, với mục tiêu thống nhất Tổ quốc.

Trong bối cảnh tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, nhưng nhờ có sự chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 20/7/1954, chúng ta đã cùng với Pháp ký các hiệp định đình chỉ chiến sự và cùng các bên ra tuyên bố cuối cùng của hội nghị vào ngày 21/7/1954. Lần đầu tiên, tất cả các nước lớn đã phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh chống sự can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ.

Hiệp định Genève là một thắng lợi lớn không chỉ của riêng nhân dân Việt Nam, mà còn của phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực và trên thế giới. Pháp phải rút quân về nước và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia.

Hiệp định này đánh dấu sự sụp đổ hệ thống thực dân thống trị trên quy mô toàn cầu, góp phần quan trọng cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới; đồng thời, khẳng định tính tất thắng của cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Kết quả đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ truyền thống yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam.

Những bài học kinh nghiệm rút ra từ Hội nghị Genève có giá trị to lớn để chúng ta tiếp tục vận dụng trong giai đoạn mới, nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Hơn 70 năm đã trôi qua, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève vẫn in đậm dấu ấn trong tâm trí của các thế hệ người dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Ý nghĩa to lớn và những bài học quý về Hiệp định Genève sẽ trường tồn cùng thời gian, được nhân lên, phát huy hơn nữa trong chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

]]>
Công bố sách về danh nhân Nguyễn Thế Trực và tác phẩm Sứ trình thi tập https://giaitrivanhoa.com/cong-bo-sach-ve-danh-nhan-nguyen-the-truc-va-tac-pham-su-trinh-thi-tap/ Sat, 26 Jul 2025 23:10:34 +0000 https://giaitrivanhoa.com/cong-bo-sach-ve-danh-nhan-nguyen-the-truc-va-tac-pham-su-trinh-thi-tap/

Ngày 9/7, tại xã Lệ Thủy, tỉnh Quảng Trị, cuốn sách “Danh nhân Nguyễn Thế Trực và Sứ trình thi tập” đã được ra mắt nhân dịp giỗ Tổ của dòng họ Nguyễn Thế. Sự kiện này đã thu hút đông đảo con cháu dòng họ Nguyễn Thế và các đại diện từ các sở, ngành, địa phương liên quan.

Cuốn sách là kết quả của sự nỗ lực nghiên cứu của GS. Trần Ích Nguyên và cộng sự, nhằm trả lại tên tác giả chính thức cho tập thơ “Sứ trình thi tập” của Phó Đốc học Quốc Tử Giám Nguyễn Thế Trực. Tập thơ này đã “lưu lạc” gần 230 năm trong văn đàn với phần tên tác giả khuyết danh. Thông tin này đã gây sự chú ý lớn trong cộng đồng học giả và những người yêu văn học.

Nguyễn Thế Trực (1745-1807) là một danh nhân văn hóa, một nhà thơ và là một quan lại trong ba triều đại (Chúa Nguyễn – Tây Sơn – Nguyễn). “Sứ trình thi tập” được đánh giá là một trong những tác phẩm thơ văn đi sứ tiêu biểu của Việt Nam thời kỳ này. Cuốn sách không chỉ giúp hậu duệ dòng họ hiểu rõ công trạng của cha ông mà còn lan tỏa tinh thần hiếu học, yêu nước, yêu quê hương.

Theo PGS. TS Trần Thị Băng Thanh, phát hiện của GS. Trần Ích Nguyên đã cung cấp cho văn học sử, giới nghiên cứu và độc giả một “gương mặt mới” trong dòng thơ đi sứ thời Tây Sơn. Tập thơ đã góp thêm một tiếng thơ riêng vào thành tựu văn học Tây Sơn và lưu giữ những dữ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời Tây Sơn.

Cuốn sách “Danh nhân Nguyễn Thế Trực và Sứ trình thi tập” cũng mở ra một hướng hợp tác mới giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam và Đài Loan trong việc công bố, khảo cứu và dịch chú các tập thơ đi sứ của những sứ thần Việt Nam. Với sự ra mắt của cuốn sách này, các bạn trẻ có thể học hỏi được nhiều điều từ chính cuộc đời của danh nhân và những tác phẩm thơ của ông. Học ở ông, một con người làm quan qua cả ba triều đại đều được trọng dụng, tài giỏi, khoan hòa, chính trực…

Thông qua cuốn sách, độc giả có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thế Trực, cũng như giá trị văn học và lịch sử của tập thơ “Sứ trình thi tập”. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng cuốn sách sẽ góp phần tích cực vào việc nghiên cứu và quảng bá văn học Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước ngày càng phát triển.

Cuốn sách “Danh nhân Nguyễn Thế Trực và Sứ trình thi tập” không chỉ là một tác phẩm nghiên cứu văn học mà còn là một tài liệu quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Với sự ra mắt của cuốn sách này, hy vọng rằng sẽ có thêm nhiều người quan tâm đến việc nghiên cứu và học tập về văn hóa và lịch sử của dân tộc.

]]>
Cây đa 9 gốc sống sót qua 500 năm và các cuộc chiến tranh https://giaitrivanhoa.com/cay-da-9-goc-song-sot-qua-500-nam-va-cac-cuoc-chien-tranh/ Sun, 20 Jul 2025 10:26:22 +0000 https://giaitrivanhoa.com/cay-da-9-goc-song-sot-qua-500-nam-va-cac-cuoc-chien-tranh/

Làng Yên Lạc, thuộc xã Hạ Bằng, hiện lên như một bức tranh idyllic về một làng quê Việt Nam với hình ảnh cây đa, giếng nước, và sân đình quen thuộc. Nổi bật trong bức tranh đó là cây đa 9 gốc, với tuổi thọ hơn 500 năm, đã trở thành biểu tượng gắn liền với lịch sử và cuộc sống của nhiều thế hệ người dân nơi đây.

Cây đa cao lớn tỏa bóng mát cho đình làng Yên Lạc, bên dòng Tích Giang hiền hòa. Theo ghi chép của sử sách, cây đa được trồng vào năm Hồng Đức nguyên niên, 1469, cùng thời điểm dựng đình. Truyền thuyết dân gian cũng kể rằng cây đa này vô cùng thiêng liêng, đã che chở và hỗ trợ 3 vị tướng của làng, giúp vua Hùng bảo vệ được bờ cõi Văn Lang trong thời kỳ dựng nước.

Qua hơn 500 năm tồn tại, cây đa ban đầu chỉ có một gốc, nhưng hiện nay đã phát triển thêm 8 gốc nữa. Cây đa 9 gốc đã trải qua nhiều trận bão lớn, nhưng vẫn đứng vững, không bao giờ bị gãy. Chỉ thỉnh thoảng, những cành đa lâu ngày bị mục mới tự gãy xuống. Trong những năm chiến tranh, dù giặc đã tàn phá nhiều nơi trong thành phố, cây đa 9 gốc vẫn nguyên vẹn. Cây chưa bao giờ bị sâu bệnh hay bị tàn phá bởi bất kỳ nguyên nhân nào.

Trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, xã Hạ Bằng ngày càng trở nên giàu đẹp. Cùng với sự phát triển kinh tế và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chính quyền và nhân dân trong xã luôn ý thức giữ gìn và phát huy giá trị những di sản mà cha ông đã để lại.

Bà Nguyễn Kim Loan, Chủ tịch UBND xã Hạ Bằng, cho biết: Gắn với xây dựng nông thôn mới, chính quyền và nhân dân xã Hạ Bằng luôn chú trọng bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp làm nền tảng cho sự phát triển. Từ ngàn xưa, hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình đã trở thành biểu trưng đẹp đẽ trong tâm trí của người Việt về một làng quê thanh bình.

Mỗi dịp lễ hội, các tổ chức như hội phụ nữ, thanh niên, thiếu nhi, cựu binh Yên Lạc lại tụ họp dưới tán đa này, duy trì nếp sống làng quê. Cây đa vì thế giống như một chứng nhân lặng lẽ, lưu giữ những ký ức, truyền thống tốt đẹp trong dòng chảy không ngừng của sự đổi thay và phát triển.

]]>