Phát hiện – Giaitrivanhoa.com https://giaitrivanhoa.com Khám phá thế giới giải trí và văn hóa đa dạng! Sat, 20 Sep 2025 10:40:28 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/giaitrivanhoa/2025/08/giaitrivanhoa.svg Phát hiện – Giaitrivanhoa.com https://giaitrivanhoa.com 32 32 Bí mật 400 năm về phương pháp giữ răng của nữ quý tộc Pháp thế kỷ 17 https://giaitrivanhoa.com/bi-mat-400-nam-ve-phuong-phap-giu-rang-cua-nu-quy-toc-phap-the-ky-17/ Sat, 20 Sep 2025 10:40:25 +0000 https://giaitrivanhoa.com/bi-mat-400-nam-ve-phuong-phap-giu-rang-cua-nu-quy-toc-phap-the-ky-17/

Các nhà khoa học đã phát hiện ra một bí mật đã bị chôn vùi hàng thế kỷ về cuộc đời của một nữ quý tộc Pháp vào thế kỷ 17. Anne d’Alegre, người đã qua đời vào năm 1619, đã sử dụng dây vàng để giữ răng của mình không bị rơi ra. Phát hiện này được thực hiện trong quá trình một cuộc khai quật khảo cổ tại Château de Laval ở tây bắc nước Pháp vào năm 1988. Thân thể của bà được ướp trong một cỗ quan tài chì, và bộ xương cũng như răng của bà được bảo tồn một cách đáng chú ý.

A close-up in picture (A) and in radiograph (B) of the skull of Anne d'Alegre, a 17th-century aristocrat. (INRAP/AFP)
A close-up in picture (A) and in radiograph (B) of the skull of Anne d’Alegre, a 17th-century aristocrat. (INRAP/AFP)

Vào thời điểm đó, các nhà khảo cổ đã nhận thấy bà có một bộ răng giả, nhưng họ không có công cụ quét tiên tiến để tìm hiểu thêm. Mới đây, một nhóm các nhà khảo cổ và nha sĩ đã xác định rằng d’Alegre đã bị bệnh nha chu làm răng của bà bị lỏng, theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học Khảo cổ: Báo cáo. Quét bằng ‘Chùm tia hình nón’, sử dụng tia X để tạo hình ảnh ba chiều, cho thấy dây vàng đã được sử dụng để giữ và siết chặt một số răng của bà.

Ngoài ra, bà còn có một răng giả làm bằng ngà voi của một con voi – không phải là ngà của hà mã, vốn phổ biến vào thời điểm đó. Tuy nhiên, công việc nha khoa phức tạp này chỉ làm ‘tệ tình hình hơn’, theo Rozenn Colleter, một nhà khảo cổ tại Viện Nghiên cứu Khảo cổ Phòng ngừa Quốc gia Pháp và là tác giả chính của nghiên cứu. Các dây vàng sẽ cần phải được siết lại nhiều lần trong nhiều năm, làm cho các răng lân cận càng bị mất ổn định hơn, các nhà nghiên cứu cho biết.

Có lẽ d’Alegre đã chịu đựng sự đau đớn này không chỉ vì lý do y tế. Thời đó có áp lực rất lớn đối với phụ nữ quý tộc khi mà vẻ ngoài được coi là có liên quan đến giá trị và thứ hạng trong xã hội. Ambroise Pare, một người cùng thời với d’Alegre, là bác sĩ của một số vị vua Pháp và đã thiết kế các bộ răng giả tương tự, đã tuyên bố rằng ‘nếu một bệnh nhân không có răng, thì lời nói của người đó trở nên thô kệch’, theo lời của Colleter. Một nụ cười đẹp đặc biệt quan trọng đối với d’Alegre, một ‘nhân vật gây tranh cãi’, hai lần bị विधवा và là một người phụ nữ có vị thế xã hội không tốt, theo Colleter.

Bà đã sống qua một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử Pháp. Là một người Huguenot, một Kitô hữu cải cách, người đã chiến đấu chống lại người Công giáo trong các Cuộc chiến Tôn giáo Pháp vào cuối thế kỷ 16. Ở tuổi 21, bà đã विधवा lần đầu tiên và có một con trai nhỏ, Guy XX de Laval. Khi đất nước dấn vào Chiến tranh Tôn giáo lần thứ Tám, d’Alegre và con trai bà đã phải trốn tránh các lực lượng Công giáo trong khi tài sản của họ bị vua tịch thu. Con trai bà sau đó chuyển sang Công giáo và đi chiến đấu ở Hungary, và tử vong trong trận chiến ở tuổi 20.

Sau khi विधवा lần thứ hai, d’Alegre qua đời vì bệnh ở tuổi 54. Răng của d’Alegre ‘cho thấy bà đã trải qua rất nhiều căng thẳng’, theo Colleter. Nhà nghiên cứu này hy vọng rằng nghiên cứu này ‘đã đi một bước nhỏ để phục hồi danh dự cho bà’. Bệnh nha chu nghiêm trọng ước tính ảnh hưởng đến gần một phần năm số người lớn trên thế giới, theo Tổ chức Y tế Thế giới.

]]>
Phát hiện cách giết tế bào ung thư bằng cách kích nổ từ trong ra ngoài https://giaitrivanhoa.com/phat-hien-cach-giet-te-bao-ung-thu-bang-cach-kich-no-tu-trong-ra-ngoai/ Sun, 10 Aug 2025 00:58:07 +0000 https://giaitrivanhoa.com/phat-hien-cach-giet-te-bao-ung-thu-bang-cach-kich-no-tu-trong-ra-ngoai/

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện một phương pháp mới để điều trị ung thư bằng cách kích hoạt cơ chế tự vỡ của tế bào ung thư. Một hợp chất đường, được tìm thấy trong vi khuẩn sống ở đáy biển sâu, có khả năng kích hoạt một loại chết tế bào được gọi là pyroptosis. Không chỉ phá hủy tế bào ung thư, hợp chất này còn có tác dụng báo hiệu cho hệ miễn dịch tham gia vào cuộc chiến chống lại bệnh tật.

Trong các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm và trên chuột, hợp chất này đã thể hiện tác dụng chống khối u mạnh mẽ. Phát hiện này mở ra cánh cửa cho một phương pháp điều trị ung thư mới, sử dụng các phân tử tự nhiên để giải phóng sự phá hủy có mục tiêu. Việc khám phá ra hợp chất này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu các nguồn tài nguyên vi mô biển.

Khai thác pyroptosis – một hình thức chết tế bào được lập trình gây viêm – đã trở thành một chiến lược điều trị hứa hẹn cho bệnh ung thư. Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí FASEB, các nhà điều tra đã tinh chế một phân tử đường chuỗi dài, hoặc exopolysaccharide, từ vi khuẩn ở đáy biển sâu và chứng minh rằng nó kích hoạt pyroptosis để ức chế sự phát triển của khối u.

Hợp chất, được gọi là EPS3.9, bao gồm mannose và glucose, được sản xuất bởi chủng vi khuẩn Spongiibacter nanhainus CSC3.9 và các thành viên khác của chi Spongiibacter. Phân tích cơ chế cho thấy EPS3.9 có thể trực tiếp nhắm vào 5 phân tử phospholipid màng và gây độc cho khối u bằng cách kích thích pyroptosis trong tế bào ung thư bạch cầu ở người.

EPS3.9 cũng có tác dụng chống khối u đáng kể trên chuột mắc ung thư gan và kích hoạt phản ứng miễn dịch chống khối u. Công trình của chúng tôi không chỉ cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc phát triển các loại thuốc dựa trên carbohydrate mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khám phá tài nguyên vi mô biển, theo Tiến sĩ Chaomin Sun, tác giả tương ứng của Viện Khoa học Trung Quốc.

Tài liệu tham khảo: A Novel Exopolysaccharide, Highly Prevalent in Marine Spongiibacter, Triggers Pyroptosis to Exhibit Potent Anticancer Effects, bởi Ge Liu, Yeqi Shan và Chaomin Sun, ngày 23 tháng 7 năm 2025, Tạp chí FASEB. DOI: 10.1096 / fj.202500412R

]]>